fbpx

Đô thị đằng sau những thảm họa

“Nếu thất bại trong quá trình đô thị hóa, chúng ta cũng sẽ thất bại trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa” – câu nói của nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng tại Hội nghị Đô thị 2009 đã trở thành hiện thực.

Năm 2019, GDP của hai thành phố lớn nhất (TP.HCM và Hà Nội) chiếm 42% cả nước trong khi diện tích chỉ chiếm 1,6% và dân số 17%. Tuy nhiên hãnh diện đô thị chỉ như ảo ảnh, khi 3 năm liền, dân số tăng thêm hơn 3 triệu người nhưng TP.HCM tăng GDP không đáng kể do mô hình tăng trưởng tới hạn. Đô thị hóa không phải là tất cả, mà dường như hé mở cuộc lội ngược dòng của chính nó, chỉ để tồn tại.

Thời của đô thị – ảo ảnh xanh

Tăng trưởng kinh tế đang định nghĩa lại hình thái của các khu vực đô thị và mối quan hệ giữa các thành phố, cũng như các quốc gia. Tích tụ dân số, tập trung công nghiệp và thương mại, xấp xỉ 75% tổng sản phẩm đến từ đô thị đã gia tăng sức hấp dẫn của các thành phố. Đô thị hóa đã chiến thắng, ít nhất là tại châu Á với sự chuyển đổi mạnh mẽ nhất khi đồng lòng coi tăng GDP như một phép mầu.

Hiện tượng bụi mịn, sương mù quang học gây ô nhiễm không khí ở Hà Nội tháng 11/2019. Ảnh: NDT

Trung Quốc đã thông qua kế hoạch 5 năm tới sẽ phát triển đô thị bao trùm 80% dân số và có 3 vùng siêu – siêu đô thị (Mega Megapolis): Kinh-Tân-Ký gồm  9 thành phố lớn khoảng 110 triệu dân; Tam giác châu Chu Giang gồm 11 thành phố lớn khoảng 63 triệu dân; Tam giác châu Trường Giang gồm 22 thành phố lớn khoảng 90 triệu dân. Thật vô tiền khoáng hậu vì cho đến nay chỉ vài thành phố trên thế giới có ngưỡng 20 – 25 triệu dân mà bế tắc đô thị đã đến đỉnh (New York 25 triệu dân và 60 triệu du khách/năm hứng thảm họa kép khi đại dịch Covid-19 với số người chết chiếm 50% số tử vong cả nước Mỹ).

Dân số đô thị thế giới đã tăng gấp 5 lần kể từ năm 1950 và năm 2050 thế giới sẽ có 9,15 tỷ người, trong đó 2/3 là dân đô thị, chiếm 68% với 6,2 tỷ người (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế – OECD 2019). 40 năm tới, nhân loại cần xây gấp đô thị cho khoảng 3 tỷ người, chủ yếu ở những nước đang phát triển (trong suốt 2.500 năm trước, loài người mới xây đủ đô thị cho 3 tỷ người). Thật không tưởng!

Đáng nói, các thành phố chỉ chiếm 2% diện tích đất đai, song tiêu thụ tới 75% nguồn lực thế giới và tạo ra một cơ số tương tự lượng rác thải với những hậu quả có tính tàn phá đối với môi trường và sức khỏe cư dân đô thị.

Các con số đột biến và ẩn chứa hiểm họa

Bắt đầu đô thị hóa, năm 1989, đô thị Việt Nam chiếm 5% diện tích và dưới 13% dân số. Thời điểm đó, cả nước có 62 đô thị, chỉ duy nhất TP.HCM dân số hơn 1 triệu người, một đô thị 0,5-1 triệu người (Hà Nội). 20 năm sau, năm 2009, dân số đô thị ước tính chiếm 30% dân số. Và năm 2020 dân đô thị gần 40% với 811 đô thị – con số đô thị gấp 13 lần với kỳ tích là hai thành phố trên 10 triệu dân. Dự tính đến 2030 dân số đô thị tăng đến 50% với hơn 50 triệu người (theo Tổng cục Thống kê và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc).

Năm 2019, thống kê chính thức dân số TP.HCM là 8,9 triệu và Hà Nội sau khi phình to đột ngột là 8,11 triệu. Song, thành phố không phải nơi chỉ để ngủ và đăng ký hộ khẩu, mà luôn có thêm 1/3 dân co giãn theo chân việc làm, cơ hội, du lịch và trao đổi… dẫn đến TP.HCM có số dân sinh sống thực trên 13 triệu và Hà Nội là 11 triệu người. Nếu không có chính sách đô thị hóa hợp lý, hai thành phố này sẽ tăng tự phát dân số lên 15 – 20 triệu để gia nhập 20 siêu thành phố lớn nhất thế giới. Cả hai thành phố đã không còn giải pháp đáp ứng đủ nhà ở, hạ tầng, việc làm, giảm ô nhiễm và kết dính xã hội.

Đáng buồn hơn nữa, hơn 600 đô thị loại 5 và 6 đang gồng mình thành đô thị (khi phải đi vay diện tích và dân số vùng nông thôn liền kề cho đủ chuẩn), khó kiếm đủ nguồn lực đầu tư để có kinh tế và nơi chốn theo đúng nghĩa đô thị.

Sài Gòn có những ngày chẳng khi thấy được bình minh và hoàng hôn một cách đúng nghĩa do ô nhiễm không khí. Ảnh minh hoạ: Phan Thị Khánh

Điểm nghẽn và sụp đổ đô thị? 

Theo OECD, có 5 điểm nghẽn lớn đối với tương lai đô thị Việt Nam:

1. Trình độ lao động đô thị thấp (năm 2015 có 80% lao động đô thị không bằng cấp chuyên môn), lại chỉ tập trung lao động bậc cao ở thành phố lớn.

2. Hạ tầng giao thông yếu kém khi đất giao thông Hà Nội bình quân đầu người là 4,8m2, TP.HCM là 2,9m2, bằng 20-25% chuẩn quốc tế.

3. Đô thị hóa đi kèm với thách thức môi trường nghiêm trọng gây nguy cơ cho sức khỏe dân cư và nền kinh tế (chỉ riêng bụi mịn PM theo chuẩn WHO là 20 ug/m3/năm, thì Hà Nội là 150-180 ug/m3 và TP.HCM là 96 ug/m3).

4. Bành trướng đô thị lấn vành đai nông nghiệp và tự nhiên ở ngoại vi, phát triển lạc hậu về hình thể theo mảng, biến tướng về chức năng (theo vết xe đổ mở rộng Hà Nội năm 2008, khi “thanh toán” vùng xanh ngoại vi bao bọc Hà Nội mà vẫn chưa hình thành được cấu trúc).

5. Dân cư đô thị đang thực sự mất kết dính xã hội, đánh mất dần gốc văn hóa bình đẳng làng xã lấy cộng cảm cộng đồng ngàn năm để phát triển.

Và những thảm họa đô thị không chỉ dừng lại khi đại dịch Covid-19 lây lan hầu như ở vùng đô thị toàn thế giới với dự báo sẽ nhiều hơn và nặng nề hơn tại các siêu đô thị. Báo cáo ngày 10.4 của Tổ chức từ thiện Oxfam ước tính tác động của đại dịch lên tình trạng nghèo đói toàn cầu vì thu nhập giảm 20% và số người sống trong nghèo đói cùng cực lên tới 922 triệu (sống với 1,9 USD/ngày trở xuống). Thế giới đô thị tụt lùi ba thập niên và là thảm họa vượt quá các dự báo của tích tụ đô thị.

Những vấn đề đứng lại sau thảm họa

Vấn đề của các thành phố và cư dân đô thị sau thảm họa là họ đang bị ngạt thở bởi chính trái ngọt thành công đô thị, kéo theo cả hành tinh cũng gặp nguy hiểm. Trung Quốc và Việt Nam là hai nước dấn sâu vào đô thị hóa với bầu sữa của kinh tế bất động sản có nguy cơ đổ vỡ về đô thị trong tương lai. Động lực kinh tế đất, coi trọng tăng trưởng, bỏ quên con người; sự bóp nghẹt sáng tạo, tự chủ của các thành phố, sự đông đúc quá mức và bất bình đẳng xã hội là những nguyên nhân chính.

Các ảnh chụp vệ tinh cho thấy trước đại dịch Covid-19, lượng NO2 gây ô nhiễm trầm trọng cho chất lượng không khí tại các đô thị lớn của Trung Quốc. Ảnh: CNN

Chính sách đô thị hóa của Việt Nam còn lệch lạc, biểu hiện ở nâng cấp đô thị cho nợ diện tích và dân số, đánh đổi nông thôn để mở rộng đô thị, các tỉnh quy hoạch chạy trước quy hoạch vùng và quốc gia, trái Luật Quy hoạch và cắt rời tính liên tục không gian, làm mất hiệu quả đô thị. Đô thị hóa bằng mọi giá sẽ làm nó liên tục phình to và rỗng về chất (do đầu tư công yếu, thiếu tính dẫn hướng không gian, phụ thuộc dự án tư nhân và đặc biệt không hình thành nổi các khu vực công cộng và công ích).

Cuối 2019, Bộ Xây dựng đã thông qua Khung thực hiện chương trình phát triển đô thị với hàng loạt hỗ trợ pháp lý để tăng tốc đô thị (gồm 6 chính sách phát triển). Tuyệt không có một chính sách nào đề cập sức chống chịu đô thị và đối phó thảm họa. Đơn giản là chưa có dự báo mặt trái của đô thị và ngân sách dự phòng cho thảm họa, hay là sự hồn nhiên của thói vô trách nhiệm, hay thiếu tri thức và lương tâm với số mệnh hàng chục triệu dân đô thị và tài sản đời người của họ?

Từ góc độ văn hóa, nhiều học giả gợi mở đô thị hậu hiện đại nên tránh tính chất phi nhân tính khi phá hủy tự nhiên và nông nghiệp ngoại vi để chuốc lấy một nỗi đau dai dẳng, mang tính tâm thức được gọi là “Người thành phố cô đơn”. Liệu đô thị Việt với cả cội nguồn ngàn đời chung sống với tự nhiên và được bao bọc trong lòng những làng quê êm đềm có thể thức tỉnh?

Câu hỏi lừng lững ấy vẫn đứng lại sau thảm họa Covid-19: Đô thị Việt Nam có khả năng kiểm soát thảm họa và dịch bệnh?

PGS. TS. Nguyễn Hồng Thục

Theo nguoidothi.net.vn

 

Link nguồn: https://nguoidothi.net.vn/do-thi-dang-sau-nhung-tham-hoa-23386.html

CÙNG CHUYÊN MỤC