fbpx

Vaccine – Bao giờ cho tới tháng Mười?

Trong những ngày bệnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, một câu hỏi thường trực trên báo chí quốc tế là bao giờ có vaccine cho đại dịch này?

 Những kẻ lạc quan thì nói “sớm thôi, một hai tháng là có, chậm nhất là cuối năm nay“. Nhưng người thực tế hơn thì dự báo “thời gian để đưa một loại vaccine ra thị trường ít nhất cũng phải 18 tháng, còn chậm thì có khi đến 10, 15 năm”.

Ảnh minh họa. Nguồn: Getty Images

Việc dùng vaccine để phòng bệnh gọi chung là chủng ngừa hay tiêm phòng hoặc tiêm chủng, mặc dù vaccine không những được cấy (chủng), tiêm mà còn có thể được đưa vào cơ thể bệnh nhân qua đường miệng.

Quy trình sản xuất rất phức tạp

Theo World Economic Forum (Diễn đàn Kinh tế Thế giới), công nghệ cho phép kích hoạt các phương pháp mới để tìm kiếm các mẫu ứng viên vaccine nhưng chỉ có một vài cách thử nghiệm để tạo ra chúng.

Vaccine là chế phẩm có tính kháng nguyên dùng để tạo miễn dịch đặc hiệu chủ động, nhằm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một số tác nhân gây bệnh cụ thể.

Vaccine có thể là các virus hoặc vi khuẩn sống, giảm độc lực, khi đưa vào cơ thể không gây bệnh hoặc gây bệnh rất nhẹ. Vaccine cũng có thể là các vi sinh vật bị bất hoạt, chết hoặc chỉ là những sản phẩm tinh chế từ vi sinh vật.

Việc chế tạo vaccine thường được thực hiện bằng cách tạo ra thứ gì đó tương tự như mầm bệnh mà cơ thể bắt đầu tạo ra các kháng thể để chống lại mầm bệnh. Cách phổ biến nhất để làm điều này là tạo ra “vaccine sống”, hoặc “vaccine giảm độc lực”, với nghĩa là giảm độc lực của một tác nhân gây bệnh, nhưng vẫn giữ nó tồn tại. Quá trình này trích ra một tác nhân lây nhiễm và làm thay đổi nó để nó trở nên vô hại hoặc ít độc tính. Các loại vaccine này tương phản với những loại vaccine sản xuất bằng cách “giết chết” các virus, hay còn gọi là “vaccine bất hoạt”.

Một số mẫu virus ứng viên được dùng để chế tạo vaccine sẽ được nuôi trên các tế bào động vật bên ngoài cơ thể người, chẳng hạn như tiêm vào các quả trứng gà đã được thụ tinh. Những quả trứng này sau đó được ấp trong vài ngày để virus có thời gian nhân lên trong trứng, và người ta sẽ thu được chất dịch chứa virus từ những quả trứng. Vaccine cho bệnh sởi và bệnh lao phổi được tạo ra theo cách này.

Ngược lại, “vaccine bất hoạt” có nguồn gốc từ việc xác định các protein hoạt động trong một loại virus cho phép chúng xâm chiếm tế bào của con người. Điều đó được thực hiện bằng cách lấy các mẫu mầm bệnh chết và nghiên cứu cấu trúc di truyền của chúng để các nhà khoa học có thể tái tạo chúng. Khi được tiêm vào người, cơ thể sẽ hoạt động trở lại để tạo nên các kháng thể cần thiết.

Thông thường các loại vaccine như vậy đòi hỏi nhiều liều theo thời gian, bao gồm cả những loại để bảo vệ chống lại các bệnh như bệnh dại và bại liệt.

Ngoài ra, còn có vaccine được sản xuất bằng cách tái tạo vật liệu di truyền ADN hoặc ARN của một loại virus nhất định. Phương pháp này kích thích cơ thể tạo ra các kháng thể cần thiết.

ARN (axit ribonucleic) là một phân tử polyme cơ bản có nhiều vai trò sinh học trong mã hóa, dịch mã, điều hòa, và biểu hiện của gene. Một lợi thế lớn với các vaccine sau này được làm từ ARN dễ tổng hợp và nhanh hơn.

Cần rất nhiều thử nghiệm

Hầu hết các loại vaccine mà chúng ta biết đến ngày nay mất từ 5 đến 15 năm để hoàn thiện.

Một loại vaccine dựa trên ADN chống lại virus Zika, được Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố là tình trạng khẩn cấp cho sức khỏe cộng đồng vào năm 2016, được ghi nhận sẵn sàng cho các thử nghiệm lâm sàng chỉ 7 tháng sau khi được thiết kế, nhưng đó được cho là bất thường.

Anthony Fauci, giám đốc Viện Dị ứng và Bệnh Truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kỳ, cho biết: “Thường thì loại vaccine mà quý vị sản xuất và bắt đầu thử nghiệm trong một năm không phải là vaccine có thể triển khai rộng rãi. Theo thông lệ, sẽ mất một năm đến một năm rưỡi, bất kể quý vị đi nhanh như thế nào.”

Bởi lẽ, các loại vaccine phải được kiểm tra nghiêm ngặt để đảm bảo chúng không chỉ có hiệu quả ngăn dịch bệnh mà còn phải không gây ra các tác dụng phụ nguy hiểm.

Phương pháp thử nghiệm bao gồm ba giai đoạn:

  1. Thử nghiệm trên số ít người trưởng thành khỏe mạnh
  2. Thử nghiệm trên một lượng lớn người trưởng thành trong một khu vực mà bệnh đã lây lan
  3. Thử nghiệm trên hàng ngàn người trong khu vực có bệnh lây lan

Mỗi bước này có thể kéo dài từ 6 đến 8 tháng, nhưng ngay cả khi ứng viên vaccine đã đi xa đến thế – chúng cũng có thể bị bỏ đi hoặc gặp thất bại trước khi được giới chức kiểm định vaccine phê duyệt.

Một khi ứng viên vaccine vượt qua được những vòng đua nêu trên, thách thức tiếp theo là sản xuất nó với khối lượng cần thiết để chấm dứt đại dịch.

Ảnh minh họa. Nguồn: Getty Images.

“Dục tốc bất đạt”

Tất cả các loại vaccine hoạt động theo nguyên tắc cơ bản như nhau. Chúng đưa vào một phần hoặc toàn bộ mầm bệnh cho hệ thống miễn dịch của con người, thường ở dạng tiêm và với liều thấp, để thúc đẩy việc tạo ra kháng thể chống lại mầm bệnh. Kháng thể là một loại bộ nhớ miễn dịch, chỉ cần khơi một lần là có thể nhanh chóng được huy động trở lại nếu người đó tiếp xúc với virus ở dạng tự nhiên.

Theo truyền thống, việc tiêm chủng đạt được hiệu quả bằng cách sử dụng các dạng virus sống, yếu, hoặc một phần hoặc toàn bộ virus sau khi nó bị bất hoạt bởi nhiệt hoặc hóa chất. Tuy vậy, phương pháp này có nhược điểm. Ví dụ, virus dạng sống có thể tiếp tục phát triển trong vật chủ, có khả năng lấy lại một số độc tính của nó và làm cho người tiếp nhận bị bệnh, trong khi phải có liều cao hơn hoặc lặp lại của virus bất hoạt để đạt được mức độ bảo vệ cần thiết.

Một số dự án vaccine chống Covid-19 được ghi nhận đang sử dụng các phương pháp thử nghiệm này, nhưng các dự án khác đang dùng công nghệ mới hơn. Một chiến lược gần đây như của Novavax là thiết kế một loại vaccine tái tổ hợp. Việc này liên quan đến việc trích xuất mã di truyền cho protein tăng đột biến trên bề mặt Sars-CoV-2, đây là một phần của virus có khả năng gây ra phản ứng miễn dịch ở người và dán nó vào bộ gen của vi khuẩn hoặc nấm men – buộc những vi sinh vật này tạo ra một lượng lớn protein.

Các cách tiếp cận khác, thậm chí mới hơn, bỏ qua protein và chế tạo vaccine từ ARN. Đây là trường hợp của công ty công nghệ sinh học Moderna và CureVac.

Trong khi các hãng công nghệ sinh học đang nỗ lực để thúc đẩy mọi việc nhanh nhất có thể, điều tối quan trọng là không dùng phím tắt theo kiểu đánh nhanh thắng mau.

Trong quá khứ, tuy các loại vaccine được cho là góp phần quan trọng đẩy lui nhiều bệnh dịch, việc chủng ngừa vẫn bị nhiều ý kiến phản đối, kể từ những chiến dịch tiêm chủng đầu tiên trong lịch sử. Các ý kiến đó chủ yếu dựa trên các tác dụng không mong muốn của vaccine.

Thiệu Kiệt (tổng hợp)

CÙNG CHUYÊN MỤC