fbpx

Chọn ống kính

Đối với ống kính ảnh, có một số vấn đề được đặt ra: tiêu cự (góc nhìn), chất lượng hệ thống thấu kính (độ phân giải) và tính tiện dụng (fix hay zoom…)

 Về chất lượng ống kính, một tiêu chí quan trọng là “giá tiền”, tiền càng cao thường sẽ cho chất lượng ống kính càng cao, chỉ với một ít loại trừ về thương hiệu. Có vài thương hiệu, khiến giá tiền lên rất cao, trong khi chất lượng ống kính không thật cao.

Hầu hết những ống kính chất lượng cao, đều có chứa các thành phần thấu kính phẩm chất cao như: aspherical, ED, LD, SLD, FLD… nhằm tăng cường sửa sai lỗi quang học (biến dạng rìa, mất nét rìa…), cũng như độ vi tương phản của hình ảnh (biểu đồ MTF). Thời kỳ đầu, việc chế tạo thấu kính phi cầu (aspherical lens) có chút khó khăn, họ đã chọn giải pháp dùng vật liệu “phi thủy tinh” (không bền với thời gian), sau đó, với công nghệ mài CNC phát triển tốt, họ đã tạo ra được những thấu kính dạng này cực tốt, nhằm sửa lỗi biến dạng vùng rìa (lồi hoặc lõm) đồng thời cũng cải thiện độ nét của vùng rìa này (bằng cách hiệu chỉnh khiến cho các tia RGB hội tụ ngay mặt cảm biến). Hiện giờ, cấu trúc này được xem như mặc nhiên có trong hầu hết các ống kính (kể cả dòng rẻ tiền), nên họ không hề đưa ra thông báo về sự xuất hiện của thấu kính này trong ống kính nữa.

Việc dùng những thấu kính có độ tán xạ thấp (LD) hay cực thấp (ED, ELD, SLD…) nhằm giúp tách bạch hơn các vùng chi tiết giao giới tương phản cực mạnh (tạm gọi là chức năng chống phà, lóe), có tác dụng tích cực trong sửa lỗi lé màu (viền tím – apochromatic) và trong chừng mực nào đó, nó sẽ khiến cho hình ảnh trong trẻo hơn, vì chống được hiện tượng phản xạ nội trong các lớp thấu kính. Các lớp tráng phủ (multi coated layers) cũng mang lại hiệu quả tuyệt vời trong việc giữ trong hình ảnh, chống lóe, chống phản xạ nội… và chỉ tiêu quan trọng nhất đó là nó cho phép tăng hiệu suất truyền sáng lên đến tiếp cận ngưỡng 100%. Nguyên tắc lớp tráng phủ, là độ dày sẽ nhỏ hơn nửa bước sóng ánh sáng, nghĩa là ngay từ lớp tráng phủ đầu tiên đã là “nano” (vào khoảng 100 – 200nm).

Ảnh minh họa. NAG Trung Thu
Ảnh minh họa. NAG Trung Thu

Ngay từ thời Pentax đưa ra cấu trúc “multi-coated” đã cho phép đưa ngưỡng truyền sáng lên đến 99,5%, và trải qua một số thập kỷ, hiệu suất này không ngừng tăng lên. Ngày nay, Nikon đưa ra lớp tráng phủ Nano hay Canon chọn SWC (sub-wave coated), đều là ở độ dày vào khoảng 30nm. Thuật ngữ nano mà Nikon dùng hoàn toàn mang tính thổi phồng thương mại, vì mọi lớp tráng phủ từ xưa đến giờ đều là nano cả. Chút khác biệt là cristal nano (cấu trúc chóp tinh thể nano) nhằm đẩy hiệu suất truyền sáng lên tiếp cận ngưỡng 100% (theo lý thuyết).

Hồi xưa, các hãng sản xuất ống kính của Đức có được mỏ thủy tinh Schauss, cho độ tinh khiết cực cao, và họ tạo ra được thương hiệu đỉnh của mình trong một thời gian dài (Carl Zeiss, Rodenstock, Schneider…). Nhưng ngày nay, việc “tinh chế thủy tinh” đạt ngưỡng tinh khiết như thế, không còn là vấn đề ghê gớm lắm. Các quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc cũng đều có thể làm được, Nhật là mặc nhiên rồi. Và đây là một thực tế, chính là “chất lượng quang học trên thị trường tổng thể của thế giới hầu như không cách biệt nhiều nữa“, trừ một số người cố tình đi tìm giá trị thương hiệu mà thôi.

Chọn ống kính fix hay zoom

Đây cũng là một vấn đề khiến khá nhiều bạn trẻ phân vân, và có thể sẽ phải đánh đổi nhiều trước khi có được cảm giác phù hợp với nhu cầu của mình. Ống kính fix hoặc prime lens là dạng ống kính với cấu trúc khoảng mươi thấu kính trở lại, hiếm khi vượt hơn, thậm chí chỉ cần khoảng 5 – 7 thấu kính đã có thể tạo thành một cấu trúc hoàn hảo. Những cấu trúc phức tạp, chủ yếu là vận dụng cấu trúc ghép nhằm khử lỗi APO hoặc đưa cấu trúc thành “floating element” (để phát huy chức năng chống rung). Và đương nhiên, khi càng nhiều thấu kính, sẽ khiến giá thành càng cao.

Trong khoảng hơn 20 năm, các hãng đã không ngừng đầu tư gần như toàn bộ công sức vào việc hoàn thiện cấu trúc ống kính đa tiêu cự (zoom lens). Những ống kính zoom thời kỳ đầu không tốt lắm, vừa “khẩu độ mở lớn” kém, lại chất lượng quang học không cao, đã khiến hình thành cảm giác “ống kính fix chất lượng luôn cao hơn ống zoom“. Nhưng do sự đầu tư cao của các hãng trong một thời gian rất dài, khiến chất lượng ống kính zoom tăng cường rất nhanh và rất cao. Khẩu độ mở lớn nhất được tăng cường, đồng thời chất lượng quang học không hề thua kém những ống kính fix trước đó (gần như suốt khoảng thời gian này, không hề có một ống kính fix nào được cải tiến).

Những ống kính zoom có hai trị số khẩu độ mở lớn nhất, thường sẽ nằm ở ngưỡng giá trung bình, còn dòng ống kính chỉ có một trị số khẩu độ mở lớn nhất sẽ có giá tiền cao hơn, thậm chí rất cao. Ngưỡng ống kính zoom chất lượng cao hiện thời hầu như đều nằm ở f/2.8 (một “khẩu độ mở lớn nhất”). Vài đột phá của zoom trong việc mở lớn khẩu độ hơn nữa, có thể trong vài năm nữa, ngưỡng f/2 (hay f/1.8) sẽ trở thành phổ thông hơn…

Có một số nhà nhiếp ảnh đã tạo những bảng test công phu để chứng tỏ rằng “không hề có sự cách biệt chất lượng quang học giữa hai dòng ống kính này” (đương nhiên là ở ngưỡng “giá tiền tương thích”). Thậm chí ở khẩu độ mở lớn nhất, hiện tượng tối góc và giảm nét ở rìa, thì ống kính zoom dường như “tốt hơn” (trong một số trường hợp).

Xét theo nhu cầu thì khi công việc cần thay đổi tiêu cự nhiều, nhanh trong những cú bấm máy kế tiếp, người ta sẽ chọn dùng ống kính zoom vì tính tiện nghi này. Hoặc xuất phát từ “cảm giác gọn” (không phải thay đổi nhiều lần), người ta cũng chọn zoom. Thậm chí khái niệm “ống kính normal” ngày hôm nay, sẽ là một ống kính zoom (trải từ wide đến tele gần), là dạng ống kính kit được bán kèm theo máy ảnh.

Người ta sẽ chọn ống kính fix theo hướng “khẩu độ mở lớn nhất” rộng hơn ống kính zoom, nhằm phục vụ trường hợp phải xử lý trong tình huống ánh sáng yếu (như chụp trong nhà, hay hoạt cảnh ban đêm trong điều kiện ánh sáng tự nhiên). Hoặc giả khi muốn chọn giải pháp “gọn, nhẹ” khi chụp ảnh đường phố hay du lịch (nghĩa là nếu chụp được thì tốt, còn nếu không chụp được thì bỏ). Không nên để cảm giác “chọn fix để có chất lượng cao hơn zoom” nữa… Những ống kính fix cải tiến thế hệ mới, chất lượng cải tiến không nhiều, vì hầu như đã hoàn thiện trong quá khứ, có chăng sẽ là “độ mài chuẩn xác hơn chút ít”, “lớp tráng phủ tốt hơn một xíu” và có thể “gắn thêm chức năng chống rung” (dù không thực sự cần thiết lắm ở tiêu cự ngắn). Dù sao thì chúng ta hãy suy nghĩ đến “nhu cầu thực” của mình, hơn là chạy theo những đề nghị nọ kia…

Nhiếp ảnh gia Trung Thu

CÙNG CHUYÊN MỤC