fbpx

Lăng miếu mang kiến trúc cung đình Huế giữa Sài Gòn

Trải qua gần 200 năm, Lăng Ông Bà Chiểu còn mang đậm kiến trúc cung đình Huế trên những bức phù điêu tinh xảo bằng sành sứ.

Nằm trong khuôn viên rộng 18.500 m2, kế bên hông chợ Bà Chiểu (quận Bình Thạnh, TP HCM), Lăng Ông còn có tên gọi dân gian là Lăng Ông Bà Chiểu, là nơi chôn cất Tả quân Lê Văn Duyệt, vị Tổng trấn thành Gia Định xưa. Đây đồng thời là công trình kiến trúc có giá trị văn hoá, nghệ thuật đặc sắc của vùng đất Nam Bộ.   Khu di tích được bao quanh bởi cây xanh, trên một gò đất cao hình lưng rùa, được cho là vị thế “đắc địa”.
Nằm trong khuôn viên rộng 18.500 m2, kế bên hông chợ Bà Chiểu (quận Bình Thạnh, TP. HCM), Lăng Ông còn có tên gọi dân gian là Lăng Ông Bà Chiểu, là nơi chôn cất Tả quân Lê Văn Duyệt, vị Tổng trấn thành Gia Định xưa. Đây đồng thời là công trình kiến trúc có giá trị văn hoá, nghệ thuật đặc sắc của vùng đất Nam Bộ.
Khu di tích được bao quanh bởi cây xanh, trên một gò đất cao hình lưng rùa, được cho là vị thế “đắc địa”.
Lăng có 4 cổng, trong đó cổng chính ở phía Nam (mở ra đường Vũ Tùng) được thiết kế theo kiểu Tam quan, phía trên khắc ba chữ "Thượng Công Miếu".   Công trình được xây dựng theo đồ án của kiến trúc sư Nguyễn Văn Tần vào năm 1949 và từng là biểu tượng của Sài Gòn (và miền Nam) cùng với tháp Phước Duyên của chùa Thiên Mụ (biểu tượng cho Huế và miền Trung), chùa Một Cột - chùa Diên Hựu (biểu tượng cho Hà Nội và miền Bắc).
Lăng có 4 cổng, trong đó cổng chính ở phía Nam (mở ra đường Vũ Tùng) được thiết kế theo kiểu Tam quan, phía trên khắc ba chữ “Thượng Công Miếu”.
Công trình được xây dựng theo đồ án của kiến trúc sư Nguyễn Văn Tần vào năm 1949 và từng là biểu tượng của Sài Gòn (và miền Nam) cùng với tháp Phước Duyên của chùa Thiên Mụ (biểu tượng cho Huế và miền Trung), chùa Một Cột – chùa Diên Hựu (biểu tượng cho Hà Nội và miền Bắc).
Từ cổng Tam quan, du khách có thể thấy rõ trục kiến trúc của lăng gồm: Nhà bia, lăng mộ và miếu thờ.  Theo các nguồn sử liệu, việc thờ cúng Tả quân Lê Văn Duyệt chỉ chính thức công khai khi ông được minh oan năm 1849, rồi vua Tự Đức ban chiếu trùng tu và lập miếu thờ. Đến năm 1914, việc thờ cúng được mở rộng bằng sự ra đời của Hội Thượng Công Quý Tế, một tổ chức gồm những người tự nguyện, am hiểu phong tục đảm trách việc thờ tự, trùng tu và kiến thiết lăng miếu.
Từ cổng Tam quan, du khách có thể thấy rõ trục kiến trúc của lăng gồm: Nhà bia, lăng mộ và miếu thờ.
Theo các nguồn sử liệu, việc thờ cúng Tả quân Lê Văn Duyệt chỉ chính thức công khai khi ông được minh oan năm 1849, rồi vua Tự Đức ban chiếu trùng tu và lập miếu thờ. Đến năm 1914, việc thờ cúng được mở rộng bằng sự ra đời của Hội Thượng Công Quý Tế, một tổ chức gồm những người tự nguyện, am hiểu phong tục đảm trách việc thờ tự, trùng tu và kiến thiết lăng miếu.
Mộ phần Tả quân Lê Văn Duyệt và phu nhân Đỗ Thị Phẫn là nơi có giá trị và kiến trúc cổ nhất khu di tích. Toàn thể khu mộ được xây bằng hợp chất ô dước cổ xưa.  Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả trứng úp trên bệ lớn hình chữ nhật. Vì thế ngày nay, việc phân biệt mộ Ông và mộ Bà còn nhiều tranh cãi.
Mộ phần Tả quân Lê Văn Duyệt và phu nhân Đỗ Thị Phẫn là nơi có giá trị và kiến trúc cổ nhất khu di tích. Toàn thể khu mộ được xây bằng hợp chất ô dước cổ xưa.
Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả trứng úp trên bệ lớn hình chữ nhật. Vì thế ngày nay, việc phân biệt mộ Ông và mộ Bà còn nhiều tranh cãi.
Trước khu mộ là hai tượng lân, đặc biệt tượng bên phải mang một con lân con (lân ghép). Có giả thuyết cho rằng, ngôi mộ cùng phía với tượng lân ghép này là mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt.
Trước khu mộ là hai tượng lân, đặc biệt tượng bên phải mang một con lân con (lân ghép). Có giả thuyết cho rằng, ngôi mộ cùng phía với tượng lân ghép này là mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt.
Bức "Long mã phụ đồ" bằng chất liệu sành sứ, thuỷ tinh trên bức tường khu tiền điện.   Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Sử học Bùi Thị Ngọc Trang, ngoài hai chất liệu truyền thống là gỗ, đá thì nghệ thuật khảm sành sứ tại lăng miếu là một kỹ thuật tiếp thu từ những công trình kiến trúc ở cố đô Huế. Với các loại mảnh sành sứ, thuỷ tinh vỡ vụn, nhiều màu sắc... Các nghệ nhân đã khéo léo lựa chọn và sắp xếp thành những tác phẩm nghệ thuật sống động.
Bức “Long mã phụ đồ” bằng chất liệu sành sứ, thuỷ tinh trên bức tường khu tiền điện.
Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Sử học Bùi Thị Ngọc Trang, ngoài hai chất liệu truyền thống là gỗ, đá thì nghệ thuật khảm sành sứ tại lăng miếu là một kỹ thuật tiếp thu từ những công trình kiến trúc ở cố đô Huế. Với các loại mảnh sành sứ, thuỷ tinh vỡ vụn, nhiều màu sắc… Các nghệ nhân đã khéo léo lựa chọn và sắp xếp thành những tác phẩm nghệ thuật sống động.
Bức phù điêu bằng sành sứ dùng hình tượng cá chép hoá rồng chiến đấu với chim được trang trí năm 1937 trên miếu thờ. Theo quan niệm dân gian, hình ảnh cá chép hoá rồng là biểu tượng của tinh thần đấu tranh, luôn tìm cách vượt qua khó khăn để vươn tới tương lai tốt đẹp.
Bức phù điêu bằng sành sứ dùng hình tượng cá chép hoá rồng chiến đấu với chim được trang trí năm 1937 trên miếu thờ. Theo quan niệm dân gian, hình ảnh cá chép hoá rồng là biểu tượng của tinh thần đấu tranh, luôn tìm cách vượt qua khó khăn để vươn tới tương lai tốt đẹp.
Trên nóc miếu thờ còn được trang trí bằng hình ảnh nhiều loài vật và họa tiết khác nhau như chim trĩ, công, hoa sen, hoa mẫu đơn... để thể hiện những đề tài mang tính hiện thực, gần gũi với cuộc sống con người.
Trên nóc miếu thờ còn được trang trí bằng hình ảnh nhiều loài vật và họa tiết khác nhau như chim trĩ, công, hoa sen, hoa mẫu đơn… để thể hiện những đề tài mang tính hiện thực, gần gũi với cuộc sống con người.
Cặp tượng ông Nhật, bà Nguyệt trên nóc nhà tiền điện thể hiện quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của hai cộng đồng người Việt và người Hoa tại Sài Gòn - Gia Định xưa. Đây cũng là một trong những đồ án hiếm hoi sử dụng nghệ thuật trang trí hình người tại lăng.
Cặp tượng ông Nhật, bà Nguyệt trên nóc nhà tiền điện thể hiện quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của hai cộng đồng người Việt và người Hoa tại Sài Gòn – Gia Định xưa. Đây cũng là một trong những đồ án hiếm hoi sử dụng nghệ thuật trang trí hình người tại lăng.
Khu miếu thờ, được gọi là Thượng Công Linh Miếu, gồm Tiền điện, Trung điện và Chính điện, với sắc đỏ và vàng chủ đạo.  Theo Ban quản lý di tích, ba gian nói trên có vài sự khác nhau về vật liệu, kỹ thuật kết cấu bên trong nhưng bộ mái nhà hai tầng vẫn là nét đặc sắc chung, thể hiện nét kiến trúc truyền thống Việt Nam.
Khu miếu thờ, được gọi là Thượng Công Linh Miếu, gồm Tiền điện, Trung điện và Chính điện, với sắc đỏ và vàng chủ đạo.
Theo Ban quản lý di tích, ba gian nói trên có vài sự khác nhau về vật liệu, kỹ thuật kết cấu bên trong nhưng bộ mái nhà hai tầng vẫn là nét đặc sắc chung, thể hiện nét kiến trúc truyền thống Việt Nam.
Bàn thờ giữa chính điện là tượng Tả quân Lê Văn Duyệt, được đúc bằng đồng nguyên chất dựa trên mẫu chân dung của ông in trên tờ tiền 100 đồng lưu hành tại Sài Gòn trước năm 1975.  Đức Tả quân sinh năm 1764, mất năm 1832, là một trong những bậc khai quốc công thần của triều Nguyễn. Sinh thời, ông là một vị quan thanh liêm, đức độ và được nhân dân mến mộ gọi là "Ông Lớn Thượng". Công trạng của ông được vua Gia Long ban cho nhiều đặc ân như "Nhập triều bất bái" (vào triều không phải quỳ lạy) và "Tiền trảm hậu tấu" (chém trước tâu sau).
Bàn thờ giữa chính điện là tượng Tả quân Lê Văn Duyệt, được đúc bằng đồng nguyên chất dựa trên mẫu chân dung của ông in trên tờ tiền 100 đồng lưu hành tại Sài Gòn trước năm 1975.
Đức Tả quân sinh năm 1764, mất năm 1832, là một trong những bậc khai quốc công thần của triều Nguyễn. Sinh thời, ông là một vị quan thanh liêm, đức độ và được nhân dân mến mộ gọi là “Ông Lớn Thượng”. Công trạng của ông được vua Gia Long ban cho nhiều đặc ân như “Nhập triều bất bái” (vào triều không phải quỳ lạy) và “Tiền trảm hậu tấu” (chém trước tâu sau).
Bạn trẻ thắp nhang tại sân thiên tĩnh (giếng trời), nơi nối trung điện và chính điện của lăng.   Thống kê của Ban quản lý di tích, trung bình mỗi ngày lăng đón từ 100 - 200 khách trong nước và quốc tế, riêng vào lễ tết, trên 100.000 người tới tham quan, viếng cảnh.
Bạn trẻ thắp nhang tại sân thiên tĩnh (giếng trời), nơi nối trung điện và chính điện của lăng.
Thống kê của Ban quản lý di tích, trung bình mỗi ngày lăng đón từ 100 – 200 khách trong nước và quốc tế, riêng vào lễ tết, trên 100.000 người tới tham quan, viếng cảnh.

Thành Nguyễn

Theo VnExpress

CÙNG CHUYÊN MỤC