Sự thật sau những tác phẩm để đời – Kỳ 3: Đi tìm “Cô bé nhà bên”
>> Sự thật sau những tác phẩm để đời – Kỳ 1: Ao thu xanh mướt giữa vườn Bùi
>> Sự thật sau những tác phẩm để đời – Kỳ 2: Xà nu – lễ vật hôn nhân
Từ câu hỏi “cô bé nhà bên” là ai, nhà thơ Giang Nam bất ngờ nói ngay: “Đó là vợ tôi”. Thi nhân cho biết xúc cảm “đau xé lòng anh chết nửa con người” xuất phát từ một… tin báo nhầm.
“Cô gái nhà bên là vợ tôi”
Nhà thơ Giang Nam (tên thật Nguyễn Sung, nay 91 tuổi) sống trong ngôi nhà trên đường Yersin ngay trung tâm thành phố biển Nha Trang, rào cao cổng kín, có giàn hoa giấy phủ dày.
Tôi bấm chuông, cô giúp việc bảo cụ có nhà, rồi ra dấu chỉ cụ ông đang ngồi đọc báo trên thềm hiên. Nhưng vừa nghe giới thiệu khách là nhà báo, cụ huơ tay, lắc đầu dứt khoát rằng cụ sẽ không nói bất cứ điều gì, rằng có quá nhiều chuyện tế nhị cụ đã lên tiếng nhiều lần trước đây rồi, giờ thì không nói lời nào nữa…
Thì ra, vị nguyên lãnh đạo có uy tín của tỉnh Khánh Hòa này thường được báo chí tìm đến phỏng vấn những khi chính quyền tỉnh nhà gặp “chuyện lình xình”. Không ít lần người ta lợi dụng gán vào cụ những điều mà cụ không hề nói và không nói như thế…
Tôi cố gắng phân bua rằng chỉ muốn được tỏ tường bài thơ Quê hương nổi tiếng của Giang Nam. Cụ mới hồi tâm chế trà, mời khách ngồi ghế, từng mạch chuyện chậm rãi lần hồi. “Cô gái nhà bên à?“, cụ hỏi tôi rồi đột ngột vào nhà, thắp nén nhang lên bàn thờ và thỉnh di ảnh cụ bà xuống ôm vào lòng.
“Đây, bà ấy đây, là vợ tôi, mất đã sáu năm rồi”. Cụ giới thiệu người vợ mình tên là Phan Thị Chiều, nhỏ hơn mình hai tuổi, quê ở Cửa Bé (phường Vĩnh Trường, TP. Nha Trang). Đôi mắt nhìn về xa xăm, dòng ký ức oanh liệt và tình yêu lãng mạn một thời khói lửa chiến tranh quay về trong lão nhà thơ. Cụ tâm sự mình hoạt động cách mạng năm 1946, rồi gặp cô Chiều xinh đẹp nhất ở Văn phòng Tỉnh ủy Khánh Hòa hồi ấy đóng tại vùng núi giáp ranh Khánh Hòa, Phú Yên. “Ánh mắt nhìn và nụ cười khúc khích của cô ấy kể từ đó xâm chiếm lấy tôi” – nhà thơ kể về tình ý buổi đầu.
Năm 1954, Giang Nam xin không tập kết ra Bắc mà ở lại hoạt động địa phương. Họ ước hẹn cưới nhau sau khi hiệp thương tổng tuyển cử hai miền Nam – Bắc theo Hiệp định Genève. Cụ kể: “Tuy nhiên, tổng tuyển cử đã không diễn ra. Do đó năm 1956, chúng tôi cưới nhau tại Lạc An (thuộc thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa giờ).
Đám cưới đơn sơ, chỉ có ít bánh kẹo và nước trà nhưng vô cùng hạnh phúc và vui vẻ với đồng đội. Cưới hôm trước thì hôm sau Chiều về lại Vĩnh Trường ở Nha Trang để hoạt động hợp pháp, còn tôi quay về căn cứ Đá Bàn (Ninh Hòa) tiếp tục kháng chiến…“.
Thơ chảy ra tâm trạng mất tất cả!
Sau thời gian công tác bí mật tại các tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên và Bình Định, Giang Nam được tổ chức đưa ra hoạt động hợp pháp với tên giả Nguyễn Sớm, làm thuê cho một xưởng cưa ở phía Nam cầu Hà Ra (TP. Nha Trang). Dù chỉ cách nhà vợ vài cây số nhưng hai vợ chồng không thể gặp nhau.
Khoảng 1957 – 1958, một kẻ phản bội chỉ điểm cơ sở cách mạng, cả Giang Nam lẫn vợ phải vào Nam tiếp tục hoạt động. Duyên phận đưa đẩy họ đoàn tụ tại Đồng Nai. “Chúng tôi thuê căn nhà lá nhỏ trong một xóm lao động nghèo ở Biên Hòa để ở.
Hằng ngày vợ tôi đi bán bánh bò ngoài chợ, còn tôi làm thuê cho một tư sản thầu khoán người Việt“. Người con gái đầu lòng của tình yêu ra đời. Thế rồi, hạnh phúc chẳng tày gang, Giang Nam được lệnh rút về căn cứ Hòn Dù (Khánh Hòa) hoạt động. Ít tháng sau ông bàng hoàng trước hung tin vợ con bị bắt và thủ tiêu.
“Hôm ấy, anh phó bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa gọi tôi gặp riêng và thông tin rằng vợ và đứa con gái 10 tháng tuổi của tôi bị bắt bỏ tù năm trước đó tại Sài Gòn, sau bị chúng thủ tiêu, không tìm thấy xác. Bàng hoàng, đau xót tận cùng và cảm xúc mãnh liệt, tôi viết Quê hương trong tâm trạng mất hết cả rồi! Viết dưới ánh đèn dầu tại căn cứ của Tỉnh ủy Khánh Hòa dưới chân núi Hòn Dù” – nhà thơ hồi tưởng. Bài thơ Quê hương sau khi chuyển ra Hà Nội đã được đăng và trao giải Nhì cuộc thi thơ của Tạp chí Văn Nghệ năm 1961…
Người vợ và… nhiều cô du kích
Tròn 90 tuổi, nhà thơ Giang Nam vẫn khỏe, đi lại chắc chắn mà không cần chống gậy như lẽ thường tình. Cụ rất minh mẫn và có trí nhớ tuyệt vời, trò chuyện hóm hỉnh. Dưới mái hiên nhà, bên chén trà và câu chuyện không thôi giữa ký ức và thực tại xen lẫn, cụ kể chuyện cũ gia đình, chuyện thời trẻ thơ ở quê, tháng năm kháng chiến…
Cuối năm 1961, khi đang ở căn cứ tại Củ Chi (TP.HCM), cụ bất ngờ biết vợ con vẫn còn, đã về quê tại Nha Trang sinh sống an toàn. Tòa án binh không đủ cơ sở buộc tội bà là vợ cộng sản nên trả tự do ngay tại tòa. “Cái tin sai tạo ra sự bất ngờ người yêu thương sống lại” – Giang Nam kể cảm xúc lại dâng trào mãnh liệt và làm tiếp một mạch hai bài thơ: Ngày mai đi đón em và Con còn sống.
Chuyện đang liền mạch, nhà thơ Giang Nam bỗng tạm dừng để ngâm nga bằng giọng tràn đầy cảm xúc: “Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường… Cô bé nhà bên (có ai ngờ)/ Cũng vào du kích/ Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích/ Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)… Hôm nay nhận được tin em/ Không tin được dù đó là sự thật/ Giặc bắn em rồi quăng mất xác/ Chỉ vì em là du kích em ơi!“…
Tôi thắc mắc nội dung bài thơ hầu như rất ít ăn nhập với nhân vật thật là người vợ, vì lời thơ không hề có bóng dáng thấp thoáng của vợ con, của hôn nhân, mà chỉ là cảm hứng từ tình cảm trai gái thoáng qua, yêu trộm nhớ thầm, sau mới gặp hung tin…
Nhà thơ cười hóm hỉnh: “Chất liệu để xây dựng hình ảnh cô du kích trong bài thơ phần lớn lấy từ nguyên mẫu người vợ tôi nhưng không phải nguyên mẫu hoàn toàn“. Cụ kể thêm ở đó còn có hình ảnh, câu chuyện của nhiều cô du kích khác mà mình từng gặp, từng công tác chung trên đường chiến đấu. “Thời điểm ấy, nếu viết hẳn là vợ mình thì lộ quá. Mà may nếu tôi viết hẳn nhà tôi thì có khi lại có chuyện lớn” – nhà thơ cười lớn.
Sau ngày thống nhất 30/4/1975, Giang Nam mới được đoàn tụ với vợ con ở TP. Nha Trang. Trải qua chiến cuộc khốc liệt, đôi lứa tưởng đã vĩnh viễn chia lìa, nay được về bên nhau và sống hạnh phúc đến cuối đời.
Trước chúng tôi cũng có người đến hỏi “Cô bé nhà bên là ai?“. Và mai này chắc vẫn còn người thắc mắc khi ngâm nga bài thơ tràn đầy cảm xúc yêu thương, bi tráng. Chính những câu hỏi ấy đã làm Quê hương sống mãi trong lòng người…
Cám ơn em“Đâu bàn tay mềm trong tay anh chai sạn Đâu nụ cười và nước mắt ướt vai anh Có phải em từ phía mùa Xuân đến Nâng từng bước anh đi vượt gian khổ, thác ghềnh Cám ơn em và cám ơn mùa Xuân Đã dành cho anh những gì đẹp nhất Nhớ lời dặn của em: “Hãy yêu mùa Xuân như buổi đầu ta gặp” Anh thấy mình trẻ lại tuổi đôi mươi”. (Trích bài thơ Cám ơn em, cám ơn mùa Xuân – |
Chuyện tình bi tráng trong bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao đã làm lay động hàng triệu trái tim. Khi người lính trở về, cô gái của mình đã hi sinh và hóa thành núi Đôi bất tử…
Kỳ tới: Núi Đôi – sự thật đẹp như huyền thoại
Thái Lộc – Duy Thanh
Theo Tuổi Trẻ Online