Chuyển đổi số quốc gia: bắt đầu từ con người
Đề án Chuyển đổi số quốc gia dù có hay tới đâu nhưng nếu chưa được hệ thống quản lý nhà nước hiểu thấu đáo, áp dụng vào đời sống và thực thi nghiêm túc, thì giấc mơ mạng xã hội Việt Nam và xa hơn – một quốc gia Việt Nam được số hóa – mãi chỉ là giấc mơ.
Chuyển đổi số nhìn từ chuyện của Zalo
Về Việt Nam sống một thời gian, khi người viết liên hệ với bạn bè, người thân, ai cũng hỏi, Zalo của anh là gì. Tôi quen Viber, Facebook, Yahoo, Google, nên ngại dùng Zalo mà không biết ứng dụng này đã được rất nhiều người Việt dùng. Mấy ngày qua, khi Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nói về dự định xây dựng mạng xã hội và Google kiểu Việt Nam, thì một vấn đề khác cũng cần được đặt ra là liệu mấy chục triệu tài khoản đang dùng Zalo có bị gián đoạn vì tên miền Zalo.vn và Zalo.me có thể bị thu hồi?(1)
Zalo là một ứng dụng OTT (Over-The-Top app – thuật ngữ để chỉ các ứng dụng và các nội dung như âm thanh, video được cung cấp trên nền tảng Internet), nhưng hai tên miền Zalo.vn và Zalo.me lại hoạt động như mạng xã hội mà không có giấy phép, theo cơ quan quản lý nhà nước.
Được khai trương năm 2012, Zalo “made in Vietnam” đã đạt 100 triệu người dùng trên thế giới. Hàng ngày, khoảng 900 triệu tin nhắn, 50 triệu phút gọi điện thoại và khoảng 45 triệu ảnh được gửi qua Zalo. Thêm vào đó là tiện ích mới, như Zalo Pay từ đầu năm 2018 hoạt động như một ví điện tử, góp phần làm cho thị trường thương mại điện tử khởi sắc, một trong những điểm khởi đầu cho sự chuyển đổi quốc gia số. Nếu Zalo đóng thuế thu nhập thì con số ấy không hề nhỏ. Facebook đang ngấp nghé mua ứng dụng này của Việt Nam.
Các nhà quản lý cho rằng Zalo là mạng xã hội và phải xin phép, trong khi chủ Zalo là VNG thì coi Zalo là OTT không cần xin phép, nhưng cuối cùng VNG đã cam kết sẽ xin giấy phép hoạt động mạng xã hội cho Zalo.
Chuyển đổi số bắt đầu từ đâu?
Bộ Thông tin và Truyền thông vừa đưa ra dự thảo Đề án Chuyển đổi số quốc gia với nhiều kỳ vọng lớn lao trong bối cảnh thế giới đang trong giai đoạn bắt đầu của cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0. Đề án cũng dùng những từ mạnh mẽ như phải chấp nhận sự “đập bỏ, hy sinh” những cái cũ, lạc hậu để có cái mới, cái nền tảng, nếu muốn làm cách mạng.
Có những lĩnh vực chính như chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế số (doanh nghiệp số, tài chính số, thương mại điện tử), hay chuyển đổi các lĩnh vực khác thành xã hội số, du lịch số, nông nghiệp số, rồi chính phủ số. Để làm được điều đó cần có hạ tầng số, lao động có kỹ năng số, nghiên cứu và phát triển công nghệ, kể cả môi trường pháp lý.
Đề án cũng chỉ ra những thách thức mà Việt Nam đang đối đầu như mức độ cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, năng suất lao động thấp, chỉ bằng 1/23 người Singapore, 1/6 Malaysia, bằng 1/3 người Thái Lan. Nguyên nhân chính của năng suất lao động thấp là năng lực người lao động (kiến thức, kỹ năng lao động) còn thấp, mức độ ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh hạn chế.
Đề án còn cho biết, theo đánh giá về chỉ số nguồn nhân lực của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đối với các nước Đông Nam Á năm 2016, 41% nguồn nhân lực của Việt Nam được đánh giá có kỹ năng thấp, chỉ có 10% được đánh giá có kỹ năng cao.
Còn theo báo cáo Mức độ sẵn sàng cho tương lai của ngành sản xuất được WEF công bố vào tháng 1/2018, Việt Nam không nằm trong nhóm các quốc gia sẵn sàng cho nền kinh tế sản xuất tương lai. Trong đó, một số chỉ số được đánh giá yếu kém như Chỉ số công nghệ và đổi mới xếp hạng thứ 90/100; chỉ số “Vốn con người” xếp 70/100. Các chỉ số thành phần như Tiếp thu công nghệ ở doanh nghiệp, Tác động của ICT đến dịch vụ và sản phẩm mới, Năng lực đổi mới xếp hạng lần lượt là 78/100, 70/100 và 77/100.
Mọi sự chuyển đổi đều dễ bị tắc nghẽn do con người. Thời kỳ tin học hóa được hiểu là mua cho mỗi cán bộ một cái máy tính là đủ, nhưng sử dụng thế nào cho công việc hiệu quả thì họ không được hướng dẫn. Đó là chưa kể não trạng khó thay đổi, thậm chí là thích làm việc theo kiểu “thủ công” hơn là giao dịch trực tuyến vì những lý do thiếu minh bạch.
Muốn có kinh tế số, doanh nghiệp số, quốc gia số thì con người phải hiểu số hóa quan trọng ra sao và môi trường pháp lý số cho doanh nghiệp và người dân hoạt động là quan trọng nhất. Định danh số, chữ ký số là chìa khóa cho xã hội chuyển đổi số. Lãnh đạo không chuyển đổi thì đừng nói tới người lao động bình thường sẽ thích…số.
Sau khi khai trương Trục liên thông văn bản quốc gia hồi tháng 3-2019, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng kể, ông gần như không ký văn bản giấy. Thấy ai thập thò ngoài cửa với tập giấy trong tay, ông mời vào chơi uống trà nhưng nhất quyết không ký giấy mà phải ký số trên iPad.
Cách đây chục năm, khi làm cho Ngân hàng Thế giới bên Washington DC (Mỹ), người viết phụ trách công nghệ thông tin, có một mảng tương tự như chuyển đổi số cho tổ chức tài chính quốc tế này. Đó là muốn hạn chế văn bản giấy thì phải cải tạo cho mạng máy tính đủ mạnh để lưu trữ.
Quan trọng hơn cả là thay đổi thói quen “giấy tờ” đã ăn sâu vào não trạng cả nửa thế kỷ. Từ nhân viên thư ký đến chủ tịch đều bắt buộc dùng văn bản số qua mạng, e-mail, văn bản chia sẻ, kể cả ký số. Các poster dán khắp nơi “Bạn hãy gửi vào IRIS – hệ thống văn bản số”, “Chúng tôi không nhận bản giấy”, trong e-mail cũng có nút gửi vào IRIS. Ký duyệt các văn bản lên lương, nhận nhân viên mới, cho về hưu, quyết định thay cấu trúc các ban ngành, không còn cảnh các giấy tờ chồng chất, mà gửi vào e-mail.
Phải mất hai năm, hơn mười ngàn nhân viên mới quen việc chuyển đổi số này, mỗi lần chuyển văn phòng, các hộp giấy đựng tài liệu ít dần và khỏi phải nói về hiệu quả khi đi tìm cái quyết định ký năm 1959 cho Việt Nam vay vốn qua một cú nhích chuột.
Mới đây, đầu tháng 7, người viết giúp Ngân hàng Thế giới tư vấn cho dự án E-Government (chính phủ điện tử) của Việt Nam một số ngày, hợp đồng gửi qua e-mail từ Mỹ. Họ viết, anh chỉ cần gõ tên vào ô này coi như anh đã ký và hợp đồng có hiệu lực ngay sau khi anh nhấn nút gửi đi. Kiếm tiền trong môi trường số kể cũng nhanh.
Câu chuyện Zalo bị đề nghị thu hồi tên miền là một cảnh báo về rủi ro cho các doanh nghiệp khi chuyển đổi số. Xây dựng 7-8 năm mới được vài chục triệu người dùng, đùng một cái, có nguy cơ bị dừng. Doanh nghiệp và nhà quản lý không có cùng ngôn ngữ pháp lý nên có thể dẫn đến các quyết định hành chính mà chưa cân nhắc hết tác động kinh tế, xã hội và nhất là lòng tin của người dùng vào ứng dụng của doanh nghiệp.
(1) https://congnghe.tuoitre.vn/zalo-bi-de-nghi-thu-hoi-2-ten-mien-nguoi-dung-bi-anh-huong-gi-20190719231245661.htm
Hiệu Minh
Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn