Chọn khẩu độ

Đối với người dùng máy ảnh loại “thay được ống kính” (ILC – interchangable lens camera), thì việc chọn một trị số khẩu độ nào đó được xem là công việc bình thường. Ngay cả khi chúng ta đặt dùng ở mode P, chúng ta cũng đã “chọn” theo sự tùy chọn của nhà sản xuất.

Đầu tiên thì ai trong chúng ta cũng hiểu rằng “khẩu độ chính là một dạng cửa điều sáng”, dùng để điều tiết lượng ánh sáng đi vào để tác động lên mặt phim hay cảm biến. Và nó hoạt động trên nền cấu trúc không gian, nghĩa là “mở lớn thì ánh sáng vào nhiều, còn khi khép nhỏ lại thì ánh sáng sẽ vào ít hơn“.
Dựa theo công thức: Đường kính cửa điều sáng bằng trị số tiêu cự chia cho trị số khẩu độ. Chúng ta hình dung rằng giữa đường kính khẩu độ và trị số khẩu độ là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với nhau, nghĩa là khi đường kính khẩu độ càng lớn, thì trị số lại càng nhỏ, và ngược lại.

Ảnh minh họa. NAG Trung Thu

Trị số khẩu độ tối ưu (the best aperture) thường nằm ở vị trí giữa của dãy số khẩu độ, nó sẽ thiên về trị số lớn hơn (khép nhỏ hơn) đối với ống kính góc rộng và nhỏ hơn (mở lớn hơn) với ống kính tele. Trị số này được đo lường bằng biểu đồ MTF (để tính ra số cặp đường trên chiều cao cảm biến – linepairs per picture height). Khi đặt khẩu độ ở trị số tối ưu, thì độ “vi tương phản” (micro contrast) của hình ảnh sẽ đạt ngưỡng tốt nhất. Người ta thường chọn khẩu độ này khi chụp ảnh phong cảnh.
Khi chọn khẩu độ mở lớn nhất (trị số nhỏ nhất trên ống kính), thì luôn xuất hiện hiện tượng vignete (tối các góc), và những ống kính càng đắt tiền thì hiện tượng này xảy ra càng ít. Vì thế mà người ta hay dùng khẩu độ này để chụp chân dung (vì chỉ cần nét nơi vùng trung tâm, độ nét sẽ giảm dần ra các rìa), và việc tối các góc lại càng khiến chân dung nổi bật hơn.
Khi khép nhỏ khẩu độ hơn khẩu độ tối ưu, sẽ xuất hiện một hiện tượng gọi là “sự phân rã ánh sáng” (nhiễu xạ – diffraction), và nó sẽ khiến độ vi tương phản của hình ảnh giảm sút dần. Chính vì thế, người ta sẽ không dùng những trị số khép nhỏ gần ngưỡng cuối này để chụp hình ảnh cần “chất lượng cao nhất về độ nét, độ chi tiết”.
Người ta dùng khẩu độ để điều khiển vùng ảnh rõ (depth of field – chiều sâu ảnh trường), khẩu độ càng mở lớn thì vùng ảnh rõ càng mỏng, và khi càng khép khẩu độ lại thì vùng ảnh rõ sẽ dần mở rộng ra.
Khẩu độ là yếu tố quan trọng trong việc tạo tương tác giữa chủ thể và bối cảnh, và là một công cụ hết sức tích cực trong việc chuyển tải thông điệp xuyên qua cấu trúc tính ước lệ mỹ học của nhiếp ảnh. Và lúc này, khái niệm “khẩu độ tối ưu” sẽ được định nghĩa lại. Đó chính là trị số khẩu độ nhằm đáp ứng tốt nhất cảm giác tương tác giữa chủ thể và bối cảnh.
Giả như với hình ảnh một cô gái ngồi nơi chiếc ghế đá công viên đang gục đầu với những giọt lệ rơi rơi, phía sau lưng cô gái là hình ảnh một chàng trai đang quay lưng đi về phía xa.
– Nếu ta chọn khẩu độ f/8 chẳng hạn, có thể sẽ khiến chàng trai và cô gái cùng nằm trên vùng nét, và sẽ khiến ta hình dung chàng trai và cô gái này đang cùng xuất hiện trong một “khoảnh khắc thực tại”, là người này vừa mới rời đi.
– Nếu ta chọn khẩu độ f/4 hoặc f/2.8, khiến hình ảnh chàng trai hơi bị nhòe đi, và khi đó, cảm giác sẽ là “chàng trai là hình bóng trong hoài niệm của cô gái“, chứ không hẳn là trong cùng lớp không gian thực tại.
– Và nếu ta chọn khẩu độ f/2 hay f/1.4 thì với độ nhòe hơn rất nhiều, đôi khi không còn rõ ràng gì nữa, mà chỉ còn là “mảng sắc độ” đậm nhạt nào đó mà thôi, thì khi đó, yếu tố gây buồn cho cô gái, có khi chỉ là “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn“, hoặc là nơi một hoài niệm nào đó ở quá khứ rất rất xa rồi…
Thế thì ở đây chúng ta tiếp cận một khái niệm khác. “chọn khẩu độ theo cảm giác cá nhân“, nó xuất hiện bên cạnh kiểu “chọn khẩu độ theo chuẩn của nhà sản xuất“.

Nhiếp ảnh gia Trung Thu

kỹ thuật nhiếp ảnhkhẩu độtiêu cựnhiếp ảnh gia Trung Thu